Tuần qua đánh dấu kỷ niệm 62 năm quân lực VNCH đảo chánh, giết TT Ngô Đình Diệm và ông em, cố vấn Ngô Đình Nhu, thay đổi lịch sử miền Nam VN.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng toàn bộ biến cố vẫn còn sống nguyên vẹn trong đầu óc những người đủ 'già' đã trải qua, sống trong những ngày lịch sử đó. Và cho đến nay, cuộc chính biến đó vẫn còn là đề tài tranh cãi sôi nổi mỗi khi được nêu lên.
Nhân dịp này, DĐTC phá lệ, không bàn về thời sự chính trị Mỹ, mà xem lại trang sử không vui của đất nước.
Đây là đề tài nhạy cảm, không bao giờ đạt được sự nhất trí của tất cả, mỗi lần nêu lên là sẽ có tranh cãi, tùy góc độ nhìn. Bài này tất nhiên sẽ gây tranh cãi vì phản ảnh quan điểm của một cá nhân, có nhiều người đồng ý, cũng có nhiều người không chia sẻ quan điểm, sẽ có tranh cãi nếu không công khai trên diễn đàn thì cũng giữa những bạn bè ngồi nói lại chuyện cũ. DĐTC nhìn nhận mọi người đều có quyền khác biệt quan điểm cũng như hoàn toàn có quyền lên tiếng bảo vệ cái nhìn của mình, chỉ xin mọi người đủ bình tĩnh, tranh luận trong ôn hoà, lịch lãm, không bao giờ quên tất cả chúng ta dù sao cũng vẫn chia sẻ dòng máu Việt hết, và dù sao cũng không thay đổi được lịch sử, thay đổi những gì đã xẩy ra thật.
Trở lại câu chuyện đảo chánh.
Nhận định một biến cố chính trị luôn luôn tùy thuộc thời điểm: ngay trong lúc biến cố xẩy ra mà kẻ này tạm gọi là cách nhìn nhất thời, hay sau đó một thời gian, nhìn ngược lại xem hậu quả biến cố như thế nào trong lâu dài. Bây giờ, hơn 60 năm sau, ta thử nhìn lại một cách điềm tĩnh, không phải trong không khí sôi sục của những ngày biến loạn.
Lịch sử đã và sẽ coi TT Ngô Đình Diệm là một người vĩ đại, có công thật lớn với tổ quốc, mà không ai có thể phủ nhận được. Đồng thời, ông cũng không phải là thần thánh siêu việt hoàn hảo không bao giờ sai lầm. Trái lại, chính ông đã phạm phải những sai lầm khổng lồ đưa đến cái chết thật đáng tiếc của anh em ông và đại họa cho cả nước.
Trong bối cảnh lịch sử của VN thời đó, không ai có thể phủ nhận cái công, cái tài của ông Diệm, đã lôi VN ra khỏi vực sâu do thực dân Pháp và đám tay sai vô tài và trụy lạc Bảo Đại để lại. Khi nhận trọng trách thủ tướng, từ Mỹ về nước, ông Diệm đã thừa hưởng một đất nước khó có thể thê thảm hơn, phải nói là khó tuyệt vọng hơn. Cầm đầu bởi ông vua không sống ở VN mà bận ngủ với gái bên Hồng Kông, bên Pháp,..., qua những nội các bù nhìn, nô lệ các đại quan Phú Lăng Sa. Chính trị chia năm xẻ bẩy, với các giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo hùng cứ như thời thập nhị sứ quân, chưa kể những 'chiến khu tự trị' của các đảng phái như VNQDĐ, Đại Việt,... Quân đội quốc gia mới được thành lập chẳng những thiếu kinh nghiệm chiến trường, thiếu thốn súng đạn, mà lại bối rối trong lựa chọn chống Pháp hay chống cộng.
Vừa lãnh cái 'bãi rác' đó chẳng bao lâu, chưa kịp làm gì thì lại bị lãnh búa qua việc chia đôi đất nước, với cộng sản Việt Minh chiếm một nửa nước, cả triệu dân BV bỏ của chạy lấy người, di cư vào Nam. Mà cái đại họa trước mắt là Hòa Ước Geneve lại ấn định sẽ có tổng tuyển cử thống nhất đất nước chỉ hai năm sau, là bình phong che đậy cái thảm bại của quân Pháp, một thứ mà sau này Mỹ gọi là 'decent interval', một khoảng cách coi được để dâng cả nước vào tay Hồ Chí Minh, mà không quá mất mặt. Làm sao trong hai năm có thể dựng sống lại cái thây ma -hay cái bãi rác- Nam VN do Bảo Đại và các đại quan Pháp để lại. Mà có dựng lại được thì nhân danh tự do, dân chủ, cũng không có cách nào thắng được BV đông dân hơn, lại nằm trong vòng tay sắt của VC. Không ai quên việc năm 1945, cán bộ CS Việt Minh đã 'giúp' nông dân ít học hay mù chữ bỏ phiếu bầu quốc hội đưa đến việc các đại cán VM lãnh trên 90% phiếu gần hết. Thực tế ai cũng nhìn thấy là ông Diệm được trao cho trách nhiệm dọn dẹp bãi rác Nam Việt cho sạch để Hồ Chí Minh vào hưởng, dọn cỗ cho VC xơi, không hơn không kém.
Thế đấy, nhưng ông Diệm đã mang lại phép lạ, chỉ trong một năm đầu, đã ổn định tình hình, tiêu diệt trọn vẹn đám cướp Bình Xuyên của Bẩy Viễn, các giáo phái hỗn độn, củng cố quân lực, tạo nơi ăn chốn ở cho cả triệu dân Bắc di cư, chặn cái tổng tuyển cử cuội, cho miền Nam một cơ hội trở thành một tiểu 'đại cường' trong vùng Đông Nam Á. Nam VN trở thành một cái gương 'dựng nước lại từ đống tro tàn' được sự ngưỡng mộ của cả thế giới, nhất là những xứ chậm tiến mới thoát nạn đô hộ của các cường quốc thực dân Tây Âu đã bóc lột các xứ bị đô hộ tới xương tủy.
Nhiều người sẽ giải thích nam VN thành công là nhờ Mỹ giúp. Nhưng lịch sử, nhất là qua ngày 30/4/75, rồi sau này qua chiến tranh Afghanistan, đã phơi bày ra rõ ràng giới hạn của sự can thiệp, 'cứu giúp' của đại cường Mỹ. Thực tế là dưới thời ông Diệm, Mỹ chỉ can thiệp qua việc yểm trợ tiền bạc, ngoài ra, người ra chính sách, săn tay áo lên dựng lại nước vẫn chính là ông Diệm, không thể chối cãi được.
Một điều hiển nhiên: ông Diệm chẳng những là một nhà lãnh đạo tài ba, mà còn là gương sáng về đạo đức, thanh liêm và tinh thần yêu nước. Những đặc tính mà càng về sau, càng trở nên hiếm hoi trong đất nước chúng ta, để rồi bây giờ đã biến mất hoàn toàn, hơn nửa thế kỳ sống trong 'thiên đường xã nghĩa', chẳng còn ma nào yêu nước, trong sạch không tham nhũng.
Chuyện đáng tiếc đưa đến đại họa cho đất nước là dù sao thì ông Diệm cũng không phải là thánh sống hoàn hảo, mà chỉ là một người, tuy hơn người, nhưng vẫn đầy thiếu sót, sai lầm, đầy đủ hỷ nộ ái ố.
Trước sự thành công ngoài dự đoán của tất cả, ông Diệm đã lên cơn 'say sóng', tự tin quá đáng, tự coi mình là thiên tài, nhận được thiên mệnh cứu nước, trở nên tự cao tự đại quá đáng, tự cho mình hoàn hảo, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, đi con đường đúng, trong khi tất cả những người khác ý đều sai, đều làm chuyện phá nước, hại nước, kể cả những người đã xả thân cho đất nước trong các đảng hay phong trào chính trị chống Pháp và chống cộng, từ Quốc Dân Đảng tới Đại Việt,... Cái tự tin của ông Diệm chỉ mở cửa cho anh em thân cận trong gia đình và một đám lâu la tay sai, gọi dạ bảo vâng như đám thái giám quanh hoàng đế. Và chính cái 'dựa hơi', lạm dụng của gia đình và đám tay sai đã kéo ông Diệm vào vũng lầy độc tài quan liêu gia đình trị, khiến ông dần dần mất hết hậu thuẫn của quần chúng.
Cuối trào, trong cuộc khủng hoảng với Phật giáo, ông Diệm đã để cho ông anh Giám Mục Thục và ông em cố vấn Nhu và bà la-sát vợ ông Nhu thao túng, quậy tung chính trường, lấy những quyết định thất sách khiến cả nước chống đối. Vốn không phải là người kỳ thị tôn giáo, chủ trương đè bẹp Phật giáo, nhưng ông Diệm đã yếu đuối để anh em lạm quyền, đưa đến việc ông Diệm bị hiểu lầm, tố cáo là muốn đàn áp Phật giáo để bành trướng Công giáo, khiến ông mất hậu thuẫn trong nước cũng như trên khắp thế giới.
Đi xa hơn chuyện chống đối của khối Phật giáo, các biện pháp ông em Nhu tung ra để ổn định tình hình, đã như những giọt nước làm tràn ly, trầm trọng hóa sự chống đối của quần chúng và cả quân đội khi ông Nhu mang đảng Cần Lao vào quân đội, cho một trung tá 'Quân Ủy Trưởng' có quyền ra lệnh cho các tướng (Trung tá Quân Ủy Trưởng đó sau 63, chạy qua Paris, trở mặt, theo VC, công khai gia nhập Hội Việt Kiều Yêu Nước). Và nguy hại hơn xa, ít thì cũng lơ là cuộc chiến sinh tử chống CSBV xâm lang chiếm miền Nam, nhiều là giúp đám du kích khố rách áo ôm VC đi từ chiến thắng này tới thành công nọ trên mặt trận chính trị và quân sự.
Đưa đến tình trạng các tướng lãnh quân đội lo sợ thảm họa mất nước trong nay mai vào tay CSBV, nếu không thay đổi gì. Ông Diệm, từ vai trò 'cứu thế' biến thành chìa khoá có thể mở cửa cho CSBV chiếm cả miền Nam trong nay mai. Nhu cầu trước mắt mấy ông tướng là phải thay thế ông Diệm để cứu nước khỏi rơi vào tay CSBV.
Việc lật đổ ông Diệm có cần thiết không? Có chính danh không?
Việc lật đổ, thay thế ông Diệm là giải pháp cuối cùng, trở nên cần thiết khi ông Diệm mất hết hậu thuẫn của dân, mà đi xa hơn nữa, dân cả nước đã công khai nổi lên chống ông Diệm. Chiến tranh VN không phải chỉ là một chiến tranh thuần túy quân sự, mà còn là một cuộc chiến tranh thủ nhân tâm, mong được hậu thuẫn của toàn dân. Một khi mà dân cả nước nổi lên chống TT, thì TT không thể nào tiếp tục 'trị vì' và việc TT ngồi nắm quyền biến thành lý cớ quá tốt và tiện lợi cho CSBV tuyên truyền chống miền Nam.
Dân miền Nam VN có chống chế độ Diệm không? Nhiều người ủng hộ ông Diệm bây giờ đã cố viết lại lịch sử, quả quyết ông Diệm không hề mất hậu thuẫn của dân, mà chỉ bị đảo chánh vì Mỹ muốn thay 'gia nô', và vì các tướng có quá nhiều tham vọng cá nhân. Đúng là viết lại lịch sử.
Tất cả những người đã sống thời đó, đủ hiểu biết, đều thấy rõ ông Diệm chẳng những đã mất hậu thuẫn của dân, mà còn bị dân chống đối rất mạnh. Khi tất cả sinh viên, học sinh từ Huế xuống tới Sàigòn xuống đường biểu tình, bãi học, để nói lên tiếng nói chống ông Diệm, khi tất cả các báo bị kiểm duyệt, đục bỏ cả trang báo, khi vô số bà già tay không kéo giây kẽm gai bằng sắt nhọn, đánh nhau với cảnh sát dã chiến với đầy đủ súng ống, dùi cui, khi hàng loạt sư già trẻ, nam nữ sẵn sàng tự thiêu, thì không thể nói ông Diệm vẫn còn hậu thuẫn của dân. Càng không thể nói cả nước đã bị CS nằm vùng thao túng. Việc tố cáo các sư -nhất là Thích Trí Quang- là VC chỉ là những đòn đánh vớ vẩn, vô căn cứ, chụp mũ rẻ tiền, nghèo nàn trí tưởng tượng, vì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Thích Trí Quang là một ông sư với tham vọng trần tục quá lớn, muốn làm một 'Khomenei' của VN, đứng trên tranh chấp quốc-cộng, dĩ nhiên bị VC khai thác, nhưng chưa ai thấy bằng chứng thuyết phục nào về việc TTQ là VC. Không ai có thể chối cãi VC có len lỏi vào khai thác việc chống đối ông Diệm, nhưng nói tất cả đều do VC chỉ đạo từ trên xuống dưới là tôn vinh VC quá đáng khi đám cán ngố vẫn chỉ là đám cán ngố, không phải là siêu nhân tài giỏi tới vậy.
Trong hoàn cảnh đó, sự hiện diện của ông Diệm đương nhiên đã không còn là một rào cản chống CSBV nữa, mà đã biến thành một thứ thảm trải đường cho chiến thắng cuối cùng của CSBV. Và việc lật đổ ông Diệm trở thành cần thiết. Dĩ nhiên, nếu ông Diệm đủ ý thức và đủ uyển chuyển, có thể thay đổi chính sách, để ý hơn đến hậu thuẫn của dân thì đó là con đường lý tưởng ai cũng muốn và ai cũng hy vọng. Nhưng như trên đã bàn qua, những thành công vượt bực của ông Diệm đã đẩy ông vào thế 'say men chiến thắng', tự tin quá đáng, cương quyết giữ vững lập trường, không chịu thay đổi hay cải cách, cải tổ chính quyền. Trước thái độ cứng rắn một chiều đó, thay đổi chính quyền bằng bạo lực là giải pháp cuối cùng, khó tránh.
Ngay trong ngày 1/11, khi cuộc đảo chánh đang tiến hành, phản ứng của dân chúng cũng nói lên hết sức đầy đủ tính chính danh của cuộc đảo chánh. Dân chúng, nhất là thế hệ trẻ sinh viên, tự ý đổ xô xuống đường với những khuôn mặt hả hê vui mừng nhất, hoan nghênh quân đội, kéo đổ tượng Hai Bà Trưng mà nhiều người cho là tượng bà Nhu và con gái. Người dân Sàigòn đổ xô xuống đường, mang hoa, mang nước uống và thực phẩm đến tặng các quân nhân tham gia đảo chánh, các tướng lãnh được tung hô như đại anh hùng dân tộc. Tất cả tự phát từ lòng dân, không ai chối cãi hay viết lại lịch sử được. Cứ nhìn hình ảnh dân Sàigòn trong ngày đảo chánh 1/11/1963, rồi so sánh với ngày VC chiếm Sàigòn ngày 30/4/75 thì thấy ngay người dân nghĩ gì.
Bây giờ, những người ủng hộ TT Diêm, vẫn ra rả sỉ vả các tướng đảo chánh, bôi bác họ, chẳng hạn tố cáo họ đảo chánh vì vài trăm đô, nhưng sự thật lịch sử, khi đó toàn thể quân đội (với cả mấy chục ông tướng tư lệnh vùng, tư lệnh binh chủng, gốc bắc, trung và nam, theo Phật giáo, theo Công giáo), đã hoàn toàn mất tin tưởng vào ông Diệm, ngoại trừ một nhúm 3-4 sĩ quan trong số cả mấy ngàn sĩ quan QLVNCH.
Tóm lại, trong bối cảnh của tình hình chung khi đó, cuộc đảo chánh là cần thiết, được sự ủng hộ nhiệt tình của toàn dân, và được lãnh đạo bởi các tướng nghiêm chỉnh, thật tình lo cho đất nước, lo cho tình trạng chiến tranh chống xâm lăng của CSBV.
HẬU QUẢ DÀI HẠN
Trên nguyên tắc cũng như trên thực tế, cuộc đảo chánh bùng nổ một cách miễn cưỡng như phương tiện cuối cùng để miền Nam còn cơ hội chống đỡ hữu hiệu cuộc xâm lăng của CSBV với hậu thuẫn của cả đại tập đoàn CS quốc tế. Thế nhưng giải pháp thay thế đã không có, hay chính xác hơn, có mà còn tệ hơn cái bị thay thế. Các tướng lãnh có đầy đủ nhiệt huyết và hậu thuẫn ngay lúc ban đầu để lãnh đạo cuộc chiến sống còn của đất nước, nhưng đáng tiếc thay, đúng như các cụ đã dạy, các tướng chủ mưu cũng như lãnh đạo cuộc đảo chánh đã phơi trần sự thật cho quần chúng thấy rất sớm, chỉ là những tay 'võ biền hữu dũng vô mưu', có tâm nhưng không có tài lãnh đạo chính trị, không kiểm soát nổi đám tướng tá chiến hữu, nói chi tới lãnh đạo cả nước. Cái chất keo 'huynh đệ chi binh' gắn chặt họ vào với nhau tan ra nước lã sau khi ông Diệm bị giết, đưa đến tình trạng các tướng, chẳng ai phục ai, ai cũng đầy tự tin mình giỏi hơn ai hết, thi nhau đảo chánh, chỉnh lý, chỉ nhắm đáp ứng tham vọng cá nhân mà chẳng ai cần biết quyền lợi tối thượng của đất nước, chẳng ai còn nhớ CSBV đang tấn công chiếm cả nước.
Dịp may ngàn năm một thuở, cờ vào tay, các tướng lãnh quên bẵng đất nước để chỉ lo cho tham vọng cá nhân, đưa đến tình trạng để VC đi từ chiến thắng này tới chiến thắng kia, đe dọa mất nước trong vài tuần. Bất cần biết, ta cứ nhắm mắt lo cho địa vị cá nhân trước, VC đã có... Mỹ lo. Mà quả thật, tình hình trở nên nguy cấp tới độ Mỹ phải nhẩy vào cứu nguy khẩn cấp. Ở đây, quý độc giả có thể tranh cãi bất tận về việc Mỹ nhảy vào cuộc vì nhu cầu khẩn cấp cứu Nam VN hay vì tham vọng đế quốc muốn nắm toàn quyền quyết định về cuộc chiến, kẻ này không tranh luận về đề tài này. Chỉ biết là ngay sau khi đảo chánh thành công, miền Nam VN đã rơi vào tình trạng loạn sứ quân, với các tướng tranh dành quyền hành, tuyệt nhiên quên bẵng hay bất cần biết mối đe dọa của CSBV. Đi vận động, tìm đồng minh để đảo chánh chiếm hết thời gian của các tướng, đáng lẽ phải dành cho cuộc chiến chống CSBV. Một ông tướng chỉ huy được vài xe thiết giáp là mau mắn mang xe tăng vào thủ đô để chiếm quyền, một ông tướng khác có được vài ba chiếc máy bay, vội dọa thả bom giết lính mình để giành lấy quyền cho mình. VC rung đùi mang cán bộ vào tiếp thu các làng xã bỏ ngỏ vì lính đang ở Sài gòn bận chuyện 'chỉnh lý'.
Tình trạng thê thảm đó, khiến Mỹ bắt buộc -hay giúp Mỹ có lý do chính đáng- can thiệp trực tiếp, đổ TQLC vào Đà Nẵng, mở đầu cho việc bơm nửa triệu lính Mỹ vào cuộc chiến. Nhưng việc Mỹ can thiệp, tuy cứu được Nam VN trong nhất thời, đã biến cuộc chiến xâm lăng của CSBV thành một 'cuộc chiến chống xâm lăng của đế quốc Mỹ thay thế thực dân Pháp'. Nếu người dân chất phác không tin hẳn tuyên truyền của VC thì ít ra họ cũng thắc mắc đắn đo, đặt câu hỏi.
Chúng ta mất phần lớn chính nghĩa. Trong một cuộc chiến bảo vệ đất nước chống xâm lăng của CSBV và tay sai 'Mặt Trận Giải Phóng' mà người dân chất phác lại thấy lính ngoại quốc đánh giết lính VN, trong đó có chính thân nhân, bạn bè, con cái họ. Chuyện này, ông cựu quan lại Diệm đã thấy rõ hơn ai hết, từ đó đã công khai chống việc Mỹ mang quân vào Nam VN trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến. Ông Diệm hiểu tâm lý quần chúng VN hơn xa mấy ông Kennedy và Johnson ngồi trong Tòa Bạch Ốc cách VN nửa trái đất. Không phải họ mù tịt không hiểu gì, nhưng họ cân nhắc quyền lợi của chính nước Mỹ của họ, và giống như bất cứ người Mỹ nào khác, luôn luôn đầy đủ tự tin chỉ có mình mới làm nên chuyện, tất cả mọi người khác đều không bằng ta, đúng trong truyền thống văn hóa Mỹ.
Để rồi chúng ta mất luôn cả nước.
Tóm lại, ông Diệm về nước đã thành công ngoài mọi dự đoán, phải công nhận đã là một 'cứu tinh dân tộc', vực miền Nam VN dậy từ đống tro tàn do thực dân Pháp và ông vua chơi bời bù nhìn Bảo Đại để lại. Nhưng thành công và quyền lực trong tay đã biến thái ông Diệm từ một người thật tình yêu nước lo cho dân trở thành một người yêu chính mình và lo cho chính mình và gia đình mình. Gia đình trị độc đoán trở thành cái mộc bảo vệ cái ghế ông Diệm ngồi.
Việc thay đổi chế độ, thay người lãnh đạo trở nên thiết yếu, chuyện sống còn của đất nước.
Cái không may cho đất nước là những người thay thế ông Diệm lại thiếu khả năng, trong khi lại quá dư thừa tham vọng cá nhân, hành động vô trách nhiệm nhất khi sẵn sàng trao cho Mỹ trách nhiệm chống xâm lăng của CSBV để chỉ chú tâm vào việc dành quyền lực cho chính mình. Mà cái mỉa mai đau lòng nhất là cái quyền lực mà mấy ông tướng tranh dành, chỉ là quyền lực hão khi người Mỹ thực sự nắm hết quyền quyết định mọi chuyện, từ tài chánh tới quân sự. Số phận xứ ta nằm trong tay những người không xứng đáng. Không phải tất cả các tướng đều đáng trách. Trong khi các tướng tài thanh liêm như Cao Văn Viên, Đỗ Cao Trí,... tránh né dính đáng vào chính trị, vào các chỉnh lý, thì vai trò lãnh đạo đất nước rơi vào tay đám tướng nhiều tham vọng cá nhân nhưng bất tài như Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi,... tài cán chỉ đáng làm xã trưởng, nhưng lại coi trời bằng vung, coi quyền hành như cái giải thể thao phải đoạt cho bằng được, coi dân như khán giả ngồi coi trận đấu. Đám tướng tá trẻ có tâm, có tài, yêu nước như Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Minh Đảo, Lê Văn Hưng,... thì khi đó còn quá trẻ, vai vế còn quá thấp. Cái thảm họa của miền Nam VN là các biến cố lớn như đảo chánh, chiến tranh, ... xẩy ra quá sớm, nếu xẩy ra một chục năm sau, khi các tướng thế hệ sau nổi lên, thì trang sử VN đã được viết khác hoàn toàn.
Nôm na ra, cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm là cần thiết, nhưng cũng là một sai lầm. Sai lầm không phải trong việc lật đổ ông Diệm, mà sai lầm ở điểm tất cả các tướng lãnh cũng như các chính khách dân sự được các tướng trao cho trách nhiệm điều hành đất nước, tất cả chẳng ai đủ tài, đủ uy để thay thế ông Diệm, ông Nhu và các phụ tá của họ. Bỏ qua những tướng tuồng chèo hát bộ như một Nguyễn Cao Kỳ mặc đồ bay đen, đeo khăng quàng tím, với súng lục lủng lẳng bên hông như cao bồi trong những phim cao bồi rẻ tiền Mỹ, ăn nói bừa bãi vô ý thức nhất, xử thế như một đại ca băng đảng hơn là một thủ tướng hay tư lệnh binh chủng, các tướng chủ chốt trong cuộc đảo chánh cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Tướng Dương Văn Minh đi vào lịch sử như ông tướng đã được kêu gọi cứu nước hai lần, để rồi trở thành ông tướng độc đáo đã khai tử nước hai lần, cả Đệ Nhất lẫn Đệ Nhị Cộng Hòa đều cáo chung dưới tay ông Minh. Tướng Trần Văn Đôn, người chủ chốt trong cuộc đảo chánh, lại là ông tướng 'Tây con' nổi tiếng không phải nhờ tài cầm quân mà nhờ tài tán gái, có thời bị đồn là kép của bà Nhu.
Cuộc đảo chánh hoàn toàn chính đáng, chính danh, và cần thiết. Cái chết của anh em ông Diệm-Nhu thật ra không cần thiết, không chính đáng, là một tội lớn của tướng Dương văn Minh là người đã lấy quyết định đó. Điều đáng tiếc lớn hơn nữa là những tướng đảo chánh không đủ bản lãnh, tài năng và uy tín để thay thế TT Diệm, biến đảo chánh thành một sai lầm lịch sử đưa đến mất nước 12 năm sau.
12 năm là một thời gian quá dài để có thể nói một cách thuyết phục các ông tướng đảo chánh phải chịu trực tiếp trách nhiệm mất nước, nhưng nói cho cùng, ta mất nước vì Mỹ bất tài đã can thiệp. Khi Mỹ kiểm soát từng cắc tiền viện trợ, kiểm tra từng viên đạn, chỉ đạo từng trận đánh, thì nếu thành công đó là công của Mỹ, thất bại chỉ có thể là lỗi của Mỹ không hơn không kém. Nhưng việc để cho Mỹ can thiệp và nắm nhiều quyền như vậy là lỗi của các tướng đã không cản vì bận tranh dành quyền hành lẫn nhau. Lịch sử sẽ xác nhận lỗi lớn nhất của các ông tướng là đã đặt tham vọng cá nhân lên trên quyền lợi đất nước, bán cái cho Mỹ trách nhiệm bảo vệ đất nước trong khi biết rất rõ Mỹ làm hay không làm chuyện gì đều theo nhu cầu và quyền lợi của nước Mỹ, không phải theo nhu cầu và quyền lợi của nước Việt ta. Những ông tướng phường chèo suốt ngày lo chỉnh lý, tìm quyền lực như Nguyễn Khánh, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Cao Kỳ đều là những người vô trách nhiệm, là tội đồ dân tộc. Thay thế ông Diệm là việc cần thiết, đáng tiếc là những người thay thế không khá hơn mà còn tệ hơn xa.
Câu hỏi nếu các tướng không đảo chánh ông Diệm thì đất nước sẽ ra sao, là loại câu hỏi giả tưởng hoàn toàn vô ích vì sẽ không bao giờ có câu trả lời thỏa đáng cho tất cả mọi người.
Bây giờ, dù sau hơn 60 năm, có thể vẫn chưa đủ để đánh giá đúng mức công và tội của ông Diệm, cũng như công và tội của các tướng được, vì những người của thời đó vẫn nhiều người còn sống, chắc phải đợi một hai thế hệ nữa lịch sử mới phán xét ít chủ quan hơn và công bằng hơn. Mà cũng phải nói ngay, trách nhiệm viết lại lịch sử cho chính xác là trách nhiệm của những thế hệ tị nạn sau, chứ dĩ nhiên không ai có thể tin được lịch sử do VC viết, bất kể qua tài liệu tuyên truyền của VC hay qua... Wikipedia.
Trong toàn bộ câu chuyện, việc đáng than phiền vì đáng buồn nhất là người dân, những người chịu hậu quả trực tiếp của mọi chuyện xẩy ra trong hậu trường chính trị tại Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn, lại tuyệt đối chẳng có tiếng nói gì. Thân phận 'dân ngu khu đen' là vậy.